Chương 35: Chương 35

8833 Chữ 28/06/2025

 

Đêm buông.

Giữa tháng, vầng trăng tròn treo cao giữa trời, ánh trăng trong vắt phủ lên những con phố vắng lặng, lác đác vài tinh tú rải khắp màn trời lam sẫm, tỏa ra ánh sáng lấp lánh dịu huyền.

Hơn hai mươi người mặc y phục màu huyền cưỡi ngựa phi nhanh qua đường phố đến phủ Bùi gia theo cổng bên lần lượt tiến vào, rồi nối tiếp nhau xuống ngựa. Bọn họ hành động đều nhẹ nhàng không một tiếng động như bông tuyết đầu đông rơi xuống đất lạnh.

Bùi Hiển và Nhị phu nhân từ sớm đã nhận được tin tức, đang đứng chờ trong viện. Trông thấy Bùi Hành Chiêu mặc áo vải thô màu sẫm, cả hai lập tức cùng nhau hành lễ vấn an.

Bùi Hành Chiêu khẽ nâng tay: “Đứng dậy đi, đều không phải người ngoài cả.”

Hai người lập tức đứng lên. Nhị phu nhân nhìn Bùi Hành Chiêu, trong lòng vô cùng kích động, khẽ khàng gọi: “Thái hậu nương nương…” Rồi lại liếc mắt nhìn thị vệ đi cùng, không khỏi lo lắng: “Người sao lại cưỡi ngựa đến? Mang theo cũng chẳng nhiều người.”

Bùi Hành Chiêu mỉm cười: “Không sao cả, chỉ là ghé thăm một chút thôi.” Rồi nàng khẽ gật đầu với Bùi Hiển, đưa tay chỉ về phía Hàn Dương: “Có chuyện gì cần nói riêng thì cứ tìm hắn là được. Ta đi dạo trong nội viện một lát.”

Bùi Hiển kính cẩn đáp lời, cười rồi xoay người, đích thân sắp xếp chỗ nghỉ cho nhóm ám vệ đi cùng.

Bùi Hành Chiêu cùng Nhị phu nhân chậm rãi bước đi trên con đường lát đá trong viện, khẽ hỏi: “Đứa nghiệt chủng đó đã đưa về rồi chứ?”

Buổi sáng hôm nay bà đã tính toán ngày giờ, thấy thời cơ cũng vừa vặn liền sai người đưa Bùi Hành Hạo từ am miếu trở về phủ Bùi, cho an tĩnh một thời gian rồi sẽ xử trí theo như lời đã định trước.

“Chiều tối đã đưa về rồi.” Nhị phu nhân đáp: “Theo ý của người, thần thiếp đã an trí trong Phật đường.”

Bùi Hành Chiêu khẽ cười: “Đều là người trong nhà, Nhị thẩm không cần khách sáo với ta như vậy.”

Thời gian thật sự chung đụng giữa nàng và Nhị phu nhân không nhiều nhưng bà lại rất hiểu tính tình nàng, liền mỉm cười thuận theo, sau đó mượn ánh đèn lồng bên đường tỉ mỉ quan sát sắc diện của nàng, dịu dàng hỏi:
“Người vào cung cũng đã lâu, sống có ổn không? Trong nhà có món gì hợp khẩu vị mà còn nhớ không?”

Bùi Hành Chiêu suy nghĩ chốc lát: “Thật chẳng nhớ món nào. Ta vốn không kén ăn, chỉ cần sạch sẽ là được, no bụng là xong.”

Chắc là… đã chẳng còn nhớ nổi nữa rồi. Nhị phu nhân nghe vậy trong lòng bỗng dâng lên một nỗi xót xa.

“Còn Nhị thẩm thì sao? Đám hạ nhân trong phủ đã thu dọn yên ổn chưa?”

“Ta thì vẫn ổn.” Nhị phu nhân nở nụ cười: “Cũng nhiều năm rồi, trong nhà chỉ có người của lão phu nhân và đại phòng, tam phòng ta chẳng quản đến. Còn lại đều nghe lời ta.”

Bùi Hành Chiêu gật đầu: “Nếu thẩm vẫn canh cánh nhớ đến Hành Xuyên và Nghi Thất thì bảo người bên ngoại đưa hai đứa về, cũng tiện để thẩm được đoàn tụ một thời gian. Giờ thiên hạ đã yên ổn, trong nhà cũng không còn cảnh rối ren, thẩm có thể yên lòng rồi.”

“Được, ta nghe người.” Trong mắt Nhị phu nhân ánh lên niềm cảm kích chân thành: “Nói thật lòng, ta cứ thỉnh thoảng đôi ba ngày là lại nhớ chúng, nhớ đến nỗi lòng dạ ngứa ngáy khó chịu vô cùng.”

“Nhớ thì sẽ gặp được.”

“Những ngày qua, ta thấy Tam đệ muội sống chẳng ra sống nên liền đưa Nghi Gia sang ở tại đông sương phòng bên ta, lại mời một nữ tiên sinh về dạy học cho con bé.”

Bùi Hành Chiêu gật đầu: “Trước kia Nghi Gia có từng được học hành tử tế không?”

“Chữ cuả con bé viết rất đẹp. Con bé thích viết thơ ca vẽ vời, mỗi ngày đều sẽ luyện chữ nửa canh giờ. So với Nghi Thất thì đọc sách ít hơn nhiều, Tam đệ muội chỉ dạy nó mấy thứ như ‘Tam Bách Thiên’, ‘Nữ Tắc’, ‘Nữ Đức’.”

Nhị phu nhân cười khổ: “Bên phủ La gia thì lại mê tín cái đạo lý ‘nữ tử vô tài tức là đức’ nên không cho con gái đọc nhiều sách.”

Bùi Hành Chiêu khẽ gãi gãi bên thái dương.

Nhị phu nhân nói tiếp một việc khiến nàng nghe vào thấy lòng cũng dịu lại đôi chút:
“Có điều, Nghi Gia trước đây thường qua lại với Nghi Thất. Trước khi Nghi Thất rời kinh đi Kim Lăng, vẫn hay mang sách có chú thích cho Nghi Gia mượn, Nghi Gia lén học được không ít. Mấy hôm nay con bé mới kể với ta, chứ trước kia ta nào hay biết gì.”

“Vậy thì cũng còn đỡ.” Bùi Hành Chiêu mỉm cười.

“Nữ tiên sinh nói tư chất của Nghi Gia rất tốt, lại chăm chỉ chịu khó, nàng ấy rất quý mến con bé. Ban đầu chỉ định dạy nửa ngày nhưng chưa được mấy hôm, hai người đã bàn bạc với nhau đổi thành học cả ngày. Ta thấy thế cũng tốt. Tuổi còn nhỏ, đầu óc linh hoạt, học nhiều cũng không đến mức mệt mỏi, mà tiên sinh cũng biết chừng mực.”

Bùi Hành Chiêu khẽ nghĩ tới hai chữ “khát học”.

Nhị phu nhân ngập ngừng một chút, có chút áy náy: “Trước đây ta thật sự chẳng hề để tâm gì đến Nghi Gia gì cả.”

“Nếu hai người kia không bị đưa vào Phật đường, Tam thẩm lại không đến nông nỗi như bây giờ thì dù thẩm có muốn chăm lo cũng khó mà được như ý.” Bùi Hành Chiêu mỉm cười với bà: “Ai mà chẳng có những tháng ngày riêng phải sống? Đừng vì chút chuyện quá khứ mà tự trách mình vô cớ.”

Nhị phu nhân xúc động mỉm cười, chân thành nói: “Ta không phải cố ý nói lời lấy lòng người, mà là nhìn Nghi Gia lâu ngày trong lòng thật sự thấy thương con bé nên không tránh khỏi nghĩ ngợi linh tinh.”

“Ta hiểu.”

“À phải rồi!”

Nhị phu nhân như chợt nhớ ra chuyện gì, trong nụ cười ánh lên niềm vui chân thật: “Năm kia, đích nhi tử của nhà Chu Hưng Lễ đỗ Cử nhân rồi, có ai từng nói với người chưa?”

“Cũng là điều dễ hiểu thôi, năm xưa Chu Hưng Lễ vốn là đồng học với phụ thân ta, việc mở tư thục dạy học cũng hoàn toàn xứng đáng. Chắc hẳn đã luôn tận tâm dạy dỗ con cái mình.”

Bùi Hành Chiêu mỉm cười: “Chuyện này ta cũng từng nghe người khác nhắc đến rồi.”

“Chu Hưng Lễ mỗi dịp lễ tết đều ghé qua Bùi phủ một chuyến, hỏi thăm tin tức về người. Ông ấy không ở trong quan phủ nữa nên tin tức nhận được rất ít ỏi nhưng lòng thì vẫn thật sự lo cho người đấy.”

“Chỉ cần ông ấy sống an ổn là đủ rồi.”

Chu Hưng Lễ – chính là vị quản sự đã từng âm thầm nhắc nhở và giúp đỡ Bùi Hành Chiêu mười hai năm về trước. Mãi đến bốn năm trước, Nhị phu nhân mới biết đến mối duyên sâu xa giữa hai người họ.

Vừa đi vào nội viện, Nhị phu nhân vừa hồi tưởng lại những chuyện dã xảy ra bốn năm trước…

Bốn năm trước, sau nhiều năm xa cách, Hành Chiêu cuối cùng đã bước chân trở về nhà, nhưng là để hộ tống linh cữu của Bùi Lạc trở về tổ đường.

Năm ấy, chú cháu mỗi người chinh chiến một nơi một tỉnh khác nhau. Hành Chiêu bị trọng thương nơi sa trường, lại thêm đường xa gió bụi nên thương thế càng thêm nghiêm trọng. Lúc canh giữ linh cữu, không biết bao lần huyết thấm đỏ cả y tang.

Ngay ngày hôm sau khi phát tang, Hành Chiêu liền ngã bệnh.

Nhị phu nhân ngày nào cũng tới thăm, mang theo dược liệu quý bồi bổ hoặc vài món đồ mới lạ vui mắt, ngồi bên trò chuyện với nàng một hồi.

Một hôm, Bùi Hành Chiêu đưa cho bà một chiếc hộp gỗ trầm hương, bên trong là khế ước đất đai, điền trang, cửa tiệm, cộng thêm ngân phiếu rải rác lớn nhỏ, tổng cộng khoảng mười vạn lượng bạc.

Hành Chiêu nói: “Đây là ta để lại cho một ân nhân. Ta không muốn làm phiền thẩm nhưng trong phủ này thực sự không còn ai để phó thác.”

Nhị phu nhân vội nói: “Đừng nói khách sáo với ta. Con cứ nói kỹ càng, ta phải làm thế nào mới đúng?”

Hành Chiêu khi ấy kể lại chuyện năm xưa được Chu Hưng Lễ giúp đỡ, rồi chậm rãi nói:
“Phụ thân ta cùng Tam thúc đều đã vùi thây nơi sa trường, ta cũng không chắc có một ngày nào đó sẽ không bước theo vết họ.

Chu Hưng Lễ từng ra tay tương trợ ta, nếu ta công khai cảm tạ thì đối với ông ấy chỉ hại nhiều hơn lợi, phúc họa khó lường.

Ông ấy là gia sinh tử, một thời gian nữa thẩm hãy ra mặt làm chút chuyện, giúp ông ấy xóa tên khỏi sổ nô để trở thành một dân thường thanh bạch, gia sản đủ đầy.”

“Số ngân lượng tặng cho ông ấy, đều là bạc tiền đến từ nguồn chính đáng. Còn những sản nghiệp kia là do bằng hữu bên ngoài triều đình đứng tên mua giúp, chẳng ai nghĩ tới sẽ liên quan đến ta. Thẩm cầm danh sách ấy rồi trao lại cho ông ấy là được.

“Thẩm ở phủ Bùi bao nhiêu năm, sống cũng chẳng dễ dàng gì, ta hiểu rõ điều đó. Nay ta tuy lòng có mà không lực, chỉ có thể để lại vài người đắc dụng cho thẩm. Thẩm hãy tìm cơ hội đưa họ vào phủ, sau này có việc gì chỉ cần mở miệng căn dặn một tiếng là xong.”

Nhị phu nhân nghe xong, sững sờ trong chốc lát: từ khi Hành Chiêu trở về, nàng đối với Chu Hưng Lễ vẫn luôn lạnh nhạt, xa cách như đối với mọi hạ nhân khác. Ai mà ngờ, vị quản sự gia làm việc chu toàn ấy lại từng có ân tình sâu sắc với nàng, mà Bùi Hành Chiêu vẫn luôn ghi khắc trong lòng.

Sau khi hoàn hồn, bà lập tức đáp lời: “Con yên tâm, chuyện này giao cho ta. Ta nhất định sẽ lo chu toàn.”

Hành Chiêu nhẹ giọng đáp: “Đa tạ thẩm.”

Nhị phu nhân nghe nàng nói ra những lời mang vẻ u uất, lòng không khỏi chua xót, khẽ nói: “Con phải sống cho thật tốt, ta còn đợi đến ngày con oai phong hiển hách cơ mà.”

Hành Chiêu bật cười: “Mượn lời chúc lành của thẩm.”

Vốn là đứa trẻ tuyệt sắc từ nhỏ thế nên dù cười trong hoàn cảnh nào cũng vẫn đẹp mê người. Nhưng nụ cười khi ấy, ngoài nét dịu dàng và ấm áp lại phủ thêm một tầng u hoài lạnh lẽo.

Lạnh lẽo – một tiểu cô nương mười bốn tuổi, đã mang trong lòng một nỗi thê lương như thế.

Nàng cũng có lúc hoang mang trước tiền đồ số phận, cũng biết rõ sinh tử khó lường, thế mà vẫn kiên định bước về phía trước, không hối tiếc, không quay đầu.

Ba bốn tháng sau khi Hành Chiêu rời đi, Nhị phu nhân dựng nên một màn kịch khiến Chu Hưng Lễ trở thành “ân nhân” đã giúp đỡ đại ca ruột mình vượt qua cơn nguy khốn, để mọi việc thuận lý thành chương mà hậu tạ trọng hậu.

Chu Hưng Lễ từ đầu đến cuối đều hồ đồ không hiểu chuyện gì. Ông đến trước mặt Nhị phu nhân một mực giải thích rằng bản thân không biết gì hết, tất cả chỉ là một sự hiểu lầm.

Nhị phu nhân khi ấy liền mang chiếc hộp gỗ trầm mà Hành Chiêu gửi gắm giao cho ông, nói rõ đầu đuôi sự tình.

Chu Hưng Lễ nghe xong, hai tay nâng chiếc hộp mộc giản dị kia ngây người hồi lâu.

Sau đó, người nam nhân đã gần bốn mươi tuổi ấy bật khóc như một đứa trẻ.

Năm xưa nhờ một tay giúp đỡ của ông mà đã xoay chuyển vận mệnh của Bùi Hành Chiêu. Nhiều năm sau, sự báo đáp của Hành Chiêu không chỉ là cảm tạ mà là thay đổi thân phận cho ông, để ơn huệ ấy truyền xuống cả hậu nhân nhà họ Chu.

Về sau, cũng nhờ chuyện này mà Nhị phu nhân hiểu rằng – Hành Chiêu, rốt cuộc vẫn là thừa nhận mình. Cũng từ những lời Hành Chiêu dặn dò hôm ấy, bà bắt đầu âm thầm tính toán cho tương lai của một đôi nhi nữ thân sinh.

Làm mẹ, khi thấy con cái nhà người khác thông minh lanh lợi mà vẫn sống khổ sở, tự nhiên sẽ nghĩ đến chính mình – phải làm sao để con ruột của mình tránh khỏi con đường cũ đầy khốn khổ của người đi trước.

Vì thế bà mới nhẫn tâm gửi con trai con gái đến Kim Lăng, để chúng lớn lên trong một môi trường tương đối thanh tĩnh, thoải mái, quang minh chính đại. Chứ không phải tiếp tục sống trong ngôi nhà lúc nào cũng bị tổ mẫu chê bai, nhiếc mắng, áp lực đè nén như trước.

Cũng chính bởi những việc ấy, Bùi Hành Chiêu càng thêm tin tưởng rằng Nhị phu nhân là người hiểu chuyện, cương nhu đúng mực, nên lúc này mới không chút do dự giao cho bà danh phận chính thức làm chủ mẫu điều hành gia sự.

Trong lúc mải suy nghĩ, Bùi Hành Chiêu cùng Nhị phu nhân đã tới trước cửa Phật đường.

Đám hạ nhân canh cửa đều là người làm trong phủ nhiều năm, từng gặp qua Bùi Hành Chiêu. Lúc này thấy nàng ai nấy liền biến sắc, lập tức quỳ rạp xuống đất dập đầu, run sợ không thôi.

“Đứng lên đi.” Bùi Hành Chiêu bước lên bậc thềm, đưa tay đẩy cánh cửa gỗ nặng trịch của Phật đường.

Nhị phu nhân theo sát nàng bước vào.

Ngay đối diện cửa đặt một pho tượng Quan Thế Âm cao quá nửa người. Trên bàn thờ bày đèn dầu đang cháy, nhang khói nghi ngút, cúng dâng trái cây và chén nước thanh tịnh.

Dưới tòa sen có đặt mõ gỗ và đệm ngồi bằng cói.

Bên phía đông bố trí hai bộ bàn ghế. Trên bàn có đặt cung đăng chưa thắp, bút mực giấy nghiên, còn có cả kinh thư đã mở sẵn và những tờ giấy tuyên thành đã viết chữ.

Toàn bộ Phật đường chìm trong ánh sáng mờ tối. Nhị phu nhân bước đến cạnh bàn sách, châm lửa thắp sáng cung đăng.

Bùi Hành Chiêu nghe thấy từ nội thất phía sau vang lên tiếng động rất nhỏ, bèn chắp tay sau lưng bước đến gần.

Bùi Hành Hạo gầy trơ xương nằm trên giường, mặt vàng như sáp, thân thể tiều tụy, hôn mê chưa tỉnh. Bàn tay lộ ra ngoài chăn đã vặn vẹo biến dạng.

Lão phu nhân cùng Đại phu nhân đều mặc đồ vải thô, đầu cài trâm tang ngồi bên giường, khóc lặng lẽ mà bất lực.

Bùi Hành Chiêu khẽ ho một tiếng, rồi thong thả bước vào phòng.

Hai mẹ con cùng quay đầu nhìn về phía nàng. Trong khoảnh khắc kinh ngạc, mọi đau đớn và oán hận liền hiện rõ trong đôi mắt đỏ ngầu của họ, họ đồng thanh hét lớn:
“Ngươi tới đây làm gì!?”

Bùi Hành Chiêu nhoẻn miệng cười: “Ta rất thích nhìn người khác gặp họa, các ngươi không biết sao?”

Hai mẹ con kia hận không thể liều mạng với nàng nhưng làm vậy khác nào tự tìm đường chết? Đành phải trừng trừng mắt mà nhìn nàng, oán độc đến tột cùng.

Bùi Hành Chiêu đi tới cuối giường, hứng thú ngắm nhìn Bùi Hành Hạo, hỏi:
“Ngã xuống nước rồi, quả nhiên nhiễm phong hàn thật. Giờ tình hình ra sao?”

Nhị phu nhân bước vào, tiếp lời:
“Người đưa hắn về nói, trước đó vẫn mê man bất tỉnh. Ba ngày gần đây thì mỗi ngày tỉnh được đôi ba lần nhưng lại ho ra máu không dứt.”

“Chưa chết à? Xem ra bùa nước ấy thật sự có tác dụng, đúng là có thể trị bệnh.”

Nhị phu nhân không trả lời, bởi chỉ cần mở miệng bà sẽ không giấu nổi ý cười trong đáy mắt.

“Ta thấy trong Phật đường còn hai bát phù thủy, không cho hắn uống một bát thử xem?” Bùi Hành Chiêu hỏi lão phu nhân và Đại phu nhân.

Cơn giận dữ trong lòng Đại phu nhân rất nhanh đã chuyển thành tuyệt vọng gần như sụp đổ, cả người tuột khỏi ghế, ngã ngồi dưới đất khóc nức nở:
“Nó là đệ đệ cùng nương sinh ra với ngươi mà…”

Bùi Hành Chiêu tiến đến, nâng khuôn mặt gầy guộc tiều tụy của bà ta lên:
“Ca ca ta cũng là huynh trưởng cùng mẹ sinh ra với ta. Hắn bị các người hại chết bởi sự ngu muội mù quáng, ta chẳng lẽ không nên đòi lại công đạo cho huynh ấy? Đứa nghiệt chủng này đi theo bà hơn mười năm, còn ca ca ta đi theo bà mười năm – trong lòng bà, tình cảm ấy phân định bằng số năm hay sao?”

“Hành Giản dù sao cũng không còn nữa… Ta làm sao có thể không đau xót, không hối hận? Nhưng mà nó không còn nữa rồi, không còn nữa rồi!” Đại phu nhân gần như cuồng loạn, như thể muốn đánh thức một người trong cơn mê.

“Không, huynh ấy vẫn còn.”

Bùi Hành Chiêu đáp, giọng điệu thuần khiết đến lạ thường: “Huynh ấy vẫn luôn ở trong tim ta. Ngày linh cữu phụ thân được đưa về phủ, chính huynh ấy nói: ‘A Chiêu đừng khóc, sau này huynh sẽ thay cha chăm sóc muội, bảo vệ muội.’ Nhưng huynh ấy chỉ chăm sóc ta được năm năm, rồi cứ thế bỏ ta đi. Huynh ấy đã nuốt lời, mà nuốt lời với ta thì không được đâu.”

Đại phu nhân nghẹn họng, lời nói của Bùi Hành Chiêu khiến bà có cảm giác mình chỉ là một kẻ sắp phát điên, còn Bùi Hành Chiêu thì đã thật sự điên rồi.

Nhưng Nhị phu nhân lại nhớ đến một chuyện năm xưa…

Năm ấy, Bùi Tranh tử trận nơi sa trường, cả phủ Bùi tụ họp trong chính sảnh của lão phu nhân. Sau phút đầu kinh hoàng vì tin dữ là nỗi đau xé lòng ào ạt đến.

Hành Chiêu khi đó vẫn còn nhỏ, môi mím chặt, nước mắt tuôn như suối nhưng tuyệt nhiên không bật ra một tiếng nức nở nào.

Hành Giản nắm lấy tay muội muội, vừa gạt nước mắt của chính mình, vừa nghẹn ngào nói:
“Không khóc, chúng ta không khóc. A Chiêu còn có ca ca đây. Sau này, ca sẽ thay phụ thân ở bên muội, chăm sóc muội.”

“Dạ!” A Chiêu gật đầu thật mạnh, dùng bàn tay nhỏ bé lau nước mắt, miệng cũng lập lại lời huynh trưởng:
“A Chiêu không khóc, A Chiêu còn có ca ca!”

Nhưng về sau, ca ca của A Chiêu thì thế nào?

Còn A Chiêu, mất cả phụ thân lẫn huynh trưởng, lại ra sao?

Nước mắt của Nhị phu nhân cũng không kiềm được mà rơi xuống.

Bùi Hành Chiêu vẫn giữ vẻ ngây ngô thuần túy, chăm chú nhìn Đại phu nhân:
“Mười hai năm rồi, những gì ta còn nhớ vẫn là dáng vẻ khi huynh ấy mười tuổi, hoặc trước mười tuổi. Ta luôn mong huynh ấy sẽ hiện về trong mộng, nói với ta đôi lời, chào ta một câu từ biệt.

Nhưng huynh chưa từng đến trong giấc mơ của ta.”

“Tam thúc nói là vì huynh ấy thương ta, không nỡ quấy rầy, người bảo ta hãy buông xuống. Đại phu nhân Bùi gia, tam thúc của ta nói có đúng không? Bà… có từng mộng thấy ca ca ta chưa?”

Đại phu nhân không thể trả lời, cũng không dám trả lời. Bởi bà đã từng mộng thấy Hành Giản rất nhiều lần – có lúc là Hành Giản trách bà ngu muội, có khi là hỏi bà:
“A Chiêu đâu rồi?”

Bùi Hành Chiêu nhẹ nhàng buông tay, thu lại động tác, rồi quay sang nhìn Bùi Hành Hạo: “Kinh mạch đã đứt thì chẳng thể nối lại được; xương cốt đã vỡ vụn cũng không thể phục hồi như ban đầu. Nay đã lưu lại căn bệnh ho ra máu, về sau chỉ có thể là một kẻ lao bệnh sắp chết mà thôi. Sau này ta phải thường xuyên đến nhìn hắn, chỉ khi nhìn thấy hắn, lòng ta mới thấy dễ chịu. Mới không đến mức muốn xé xác nghiền xương hết những kẻ đã hại chết ca ca ta.”

Nàng khẽ dừng lại, kéo khóe môi lên cười lạnh: “Nếu ta có phải gánh lấy tội danh giết mẫu thân, thì ít nhất cũng phải là vì một người đáng để ta ra tay.”

“Nhưng chúng ta cũng là bị Tĩnh Nhất che mắt xúi giục mới phạm sai lầm, Hành Hạo làm điều sai trái cũng là lỗi ở chúng ta không dạy dỗ cẩn thận.”

Đại phu nhân quỳ gối trườn lên phía trước, túm lấy tay áo Bùi Hành Chiêu, nức nở cầu xin:
“Con hãy cứu lấy Hành Hạo, đừng đối xử với nó như vậy. Con còn trẻ, chưa hiểu được tình thân cốt nhục đậm sâu đến chừng nào. Cứ tiếp tục thế này… một ngày nào đó con sẽ hối hận thôi.”

“Tĩnh Nhất có tội, đã bị lăng trì. Không tin thì bà cứ đến pháp trường mà xem.” Bùi Hành Chiêu cúi đầu nhìn bà ta, ánh mắt lãnh đạm: “Còn các ngươi có lỗi… vậy chết là được. Ta có cản sao?”

“…”

“Ta không hiểu thân tình sao?”

Bùi Hành Chiêu khẽ bật cười: “Đúng vậy, ta không hiểu. Ta đã quên phụ thân, cũng quên luôn ca ca, chỉ biết phát điên vô lý với các ngươi, chẳng phải ý bà là vậy sao?”

Đại phu nhân vẫn không thể đáp lại. Bà không thể nào nói rõ ràng rành mạch tình cảm của mình đối với hai đứa con trai, mà dù có nói ra thì có ích gì? Bùi Hành Chiêu đâu có định nghe.

Bùi Hành Chiêu lại quay đầu nhìn về phía lão phu nhân đang ngồi bất động, ánh mắt trầm tĩnh:
“Lão phu nhân Bùi phủ, đến tận bây giờ mà nói thì bà quả thật không sai khi coi trọng con trai mà ghét bỏ con gái. Một đứa con gái như ta đã khiến dòng dõi chính thất của bà tuyệt tử tuyệt tôn – đúng là đáng hận thật. Năm xưa bà nên tự mình đưa ta tới am miếu xuống tóc xuất gia – phải chăng bà đã nghĩ vậy?”

Lông mày lão phu nhân khẽ động, nhưng cuối cùng vẫn cụp mắt xuống, chỉ lặng lẽ nhìn Bùi Hành Hạo trên giường bệnh.

Bùi Hành Chiêu vẫn dõi theo bà ta nhưng lời thì lại nói với Nhị phu nhân:
“Nhị thẩm, nhất định phải cắt cử người canh giữ thật kỹ chốn Phật đường này. Lão phu nhân và Đại phu nhân vì muốn giữ lại mạch máu dòng chính, chuyện gì cũng có thể làm ra. Đến cả chuyện ép một cô nương vào đây để làm chuyện nhơ nhớp với đứa nghiệt chủng này, các bà ấy cũng có thể nghĩ ra. Nếu thật sự đến mức ấy, ta đành phải sai người thiến luôn cái thứ nghiệt súc kia. Chuyện đó thật ghê tởm, tránh được thì nên tránh.”

Tâm trạng dâng trào mạnh mẽ, Nhị phu nhân lập tức đáp lời:
“Ta đã ghi nhớ, tuyệt đối sẽ không để bất kỳ nữ tử vô tội nào bị liên lụy.”

Lão phu nhân toàn thân chấn động, ngay sau đó ngã nghiêng sang một bên, cả người lẫn ghế đổ rạp xuống đất.

Đại phu nhân thất thanh kêu lên, vội vàng đứng dậy xem xét thì thấy người đã bất tỉnh nhân sự.

“Lại thêm một người bệnh nữa.” Giọng Bùi Hành Chiêu bình thản như nước: “Cho uống thủy phù đi.”

Trên mặt Nhị phu nhân nước mắt còn chưa kịp khô, vậy mà lại muốn bật cười. Bà chỉ nghĩ, những người ở bên cạnh Hành Chiêu làm sao có thể chịu đựng được tính tình của nàng? Đổi lại là bà, e rằng chưa đến ba ngày đã phát điên mất rồi.

Bùi Hành Chiêu tỏ vẻ hài lòng, xoay người rời đi.

Đại phu nhân đột ngột nhào tới, quỳ xuống đất cầu xin:
“Cầu xin con hãy mời đại phu đến khám cho Hành Hạo, ta van xin con, van xin con…”

“Nghe câu này… sao mà quen tai quá.”

Bùi Hành Chiêu tỏ ra như đang suy ngẫm: “Năm ta bị bán đi, ta có phải đã cầu xin bà và lão phu nhân như thế này không?”

Tiếng khóc của Đại phu nhân giờ đã không còn ra tiếng người, nức nở không thành lời:
“Chúng ta sai rồi, đã sớm biết mình sai rồi… Con rốt cuộc muốn thế nào mới chịu tha thứ đây?”

Bùi Hành Chiêu hất tay gạt bà ta ra:
“Trả huynh trưởng lại cho ta, ta sẽ tha thứ.” Nói xong liền quay người bỏ đi, để lại bóng lưng lạnh lẽo như tuyết đầu đông.

Nhị phu nhân ngẩn người trong chốc lát, rồi vội vã đuổi theo, cùng Hành Chiêu đến phòng của Tam phu nhân.

Trong sân viện, đèn lồng dọc hành lang chưa được thắp sáng. Ánh trăng phủ lên cảnh vật một tầng lạnh lẽo tiêu điều. Ở nơi chính phòng chỉ có một gian phía đông là phát ra ánh đèn mờ mờ. Không thấy bóng dáng hạ nhân đâu cả, chẳng rõ đã bị sai đi đâu mất.

Nhị phu nhân đi trước mở cửa, dẫn Bùi Hành Chiêu bước vào nội thất.

Trong phòng lẩn khuất mùi thuốc nhàn nhạt. Trên chiếc tủ nhỏ đầu giường đặt một ngọn cung đăng bằng sừng dê đang cháy. Sau màn trướng buông hờ, Tam phu nhân nằm trên giường, sắc mặt bệnh tật héo hon.

Nhị phu nhân vén màn trướng lên, dùng móc bạc buộc lại, sau đó kéo đến một chiếc ghế cho Hành Chiêu ngồi, rồi khẽ nói:
“Ta ra ngoài sân chờ.”

“Vất vả cho thẩm rồi.” Bùi Hành Chiêu khẽ cười đáp, tiễn bà bằng ánh mắt.

Tam phu nhân cố gắng ngồi dậy, định xuống giường hành lễ.

“Thôi miễn.” Bùi Hành Chiêu an vị trên ghế: “Ngươi lấy Nghi Gia ra làm cớ, ta liền đến xem thử.”

“Tạ ơn Thái hậu nương nương chịu nể mặt tiện phụ.”

Tam phu nhân trước tiên hành lễ bằng lời, rồi gắng sức kê một chiếc gối lớn sau lưng, tựa vào đầu giường, thẳng thắn nói:
“Bệnh của ta… triệu chứng giống như sốt rét. Đến khi phát tác dữ dội thì đành phải chuyển ra ngoài để điều dưỡng.”

“Lấy phương thuốc từ đâu?”

“Lúc trước từng nghĩ đến việc hạ độc lão phu nhân và Đại phu nhân nên đã hỏi thăm từ nhà mẹ đẻ. Mấy nhà dân thường khi xử lý hạ nhân cũng hay dùng loại này.”

Người ta hay nói “cho hạ nhân uống thuốc”, kỳ thực đa phần đều dùng đến dược liệu mà Tam phu nhân đã mua. Người bị hạ độc bằng loại thuốc ấy – chết đi vô cùng thống khổ.

Bùi Hành Chiêu khẽ “ừ” một tiếng, lấy ra bình rượu nhỏ mang theo bên mình, vặn nắp uống một ngụm.

“Ta chỉ còn khoảng hơn một tháng nữa, mà những ngày tỉnh táo thì chẳng còn được bao nhiêu.”

Tam phu nhân nhìn nàng, chậm rãi nói: “Vì Tam thúc và Nghi Gia của người, người sẽ không tự tay xử trí ta, ta biết rõ điều đó. Nhưng ta cũng chẳng còn mặt mũi nào để sống tiếp. Quyết định này… chỉ mong có thể làm nguôi bớt lửa giận trong lòng người phần nào.”

Bùi Hành Chiêu không biểu lộ gì, cũng không đáp lại.

“Ta không phải một người mẹ tốt. Ta muốn gửi gắm Nghi Gia cho Nhị phu nhân. Suy ngẫm bấy lâu ta mới hiểu ra, bà ấy là người thông minh, hiểu chuyện. Cái gọi là ‘chua ngoa’ của bà ấy cũng chỉ là với kẻ gây khó dễ, còn với trẻ con thì rất có lòng từ. Ta chết đi rồi, để Nghi Gia ở cạnh bà ấy còn tốt hơn theo ta gấp trăm lần. Còn tài sản riêng của Tam phòng, của hồi môn của ta nên xử trí ra sao? Giao thẳng cho Nhị phòng hay nhờ Nhị phu nhân giúp quản lý?”

“Ngươi giao cho họ, họ cũng chẳng nhận đâu. Cứ thu xếp sổ sách rõ ràng rồi nhờ Nhị thẩm trông nom giúp. Đợi Nghi Gia lớn hơn, bất kể có xuất giá hay không đều có thể thu lại toàn bộ, coi như một phần đời của riêng mình.”

“Ta nghe lời người, gửi gắm cho Nhị phòng. Bên nhà mẹ đẻ, ta cũng sẽ nói rõ để tránh sinh chuyện rắc rối.”

“Ừ.” Bùi Hành Chiêu lại uống thêm một ngụm rượu.

“Người đã từng gặp qua Nghi Gia chưa?”

Trong mắt Tam phu nhân chợt hiện lên tia sáng: “Bốn năm trước người trở về, ta ngày ngày chỉ biết khóc chẳng còn tâm trí lo liệu gì.”

“Gặp rồi, trông rất giống Tam thúc.”

Bùi Hành Chiêu mỉm cười: “Lần đó về, lúc ta còn đang tĩnh dưỡng. Nghi Gia đã sai nha hoàn lén mang đến mấy lần đường mạch nha, nói thuốc quá đắng, uống xong thì ăn một viên đường. Mấy viên đường ấy… ngọt lắm.”

Tam phu nhân vừa cười vừa rơi lệ. Nếu không phải vì gương mặt ấy quá giống Bùi Lạc, nếu không phải vì Nghi Gia thật lòng làm những điều tốt nhỏ bé ấy thì Hành Chiêu sớm đã âm thầm xử trí bà rồi, làm gì có chuyện buông tha? Bà lặng lẽ lau khóe mắt, khẽ nói: “Con bé là đứa tốt… là ta làm lỡ dở nó.”

“Chắc chắn là đứa tốt. Nhị thẩm cũng rất thương con bé.”

Tam phu nhân cúi đầu im lặng một lát, đến khi ngẩng lên thì ánh mắt đã thêm phần cương nghị:
“Không cần ta mở miệng cầu xin, người cũng sẽ không giận lây sang Nghi Gia 0 giờ ta mới thật sự hiểu điều đó. Ta đúng là kẻ ngu dốt. Nhà họ La từng tham dự vào một số chuyện có liên quan đến Hành Hạo. Cũng từng qua lại với quyền quý, thậm chí còn làm cầu nối giữa Hành Hạo và người thân cận của Trưởng Công chúa. Những việc ta biết không nhiều nhưng sẽ nói hết.”

Bùi Hành Chiêu hỏi: “Không sợ nhà mẹ đẻ oán trách ngươi sao?”

“Có những chuyện là sự lựa chọn của cả dòng họ nhà họ La, sớm muộn gì cũng phải trả giá.”
 

Tam phu nhân cười thê lương: “Nếu họ có oán hận ta, thì đợi đến dưới suối vàng hãy tìm ta mà tính sổ.”

Bùi Hành Chiêu khẽ gật đầu: “Ngươi nghĩ thông rồi thì tốt. Nói đi, ta nghe đây.”